Skip to content

Input

Bài viết chính

Bài viết là bản dịch của bài Input, đồng thời được hiệu đính lại nhiều phần để phù hợp với người học ngoại ngữ nói chung.

Mô hình của việc học ngoại ngữ

Có khi nào bạn tự hỏi rằng sao bạn có thể nói ngôn ngữ mẹ đẻ của bạn dễ dàng đến vậy không? Bạn muốn nói một điều gì đó (Thể hiện ý nghĩa nào đó) và những cụm từ và mẫu câu đúng (về mặt ngữ pháp và cả về nghĩa) xuất hiện trong đầu bạn. Phần lớn quá trình là vô thức: điều gì đó xuất hiện trong đầu bạn. Bạn không chắc rằng "chúng" đến từ đâu. Mô hình này sẽ giải thích tại sao:

  1. Bạn thu nhận input (Ở đây input được hiểu là "đầu vào" trong ngôn ngữ, tức những gì bạn thu nhận, thu nạp được) - bạn đọc và nghe những mẫu câu ở những ngôn ngữ nhất định. Nếu bạn hiểu những câu này, nó sẽ được lưu trữ trong đầu bạn. Cụ thể hơn, chúng được lưu trữ trong phần não chịu trách nhiệm về mặt ngôn ngữ của bạn.
  2. Khi bạn muốn nói hoặc viết điều gì đó ở ngôn ngữ đấy (Khi bạn muốn tạo ra output - tức đầu ra ngôn ngữ, bao gồm nói và viết), bộ não của bạn sẽ tìm kiếm mẫu câu mà bạn đã nghe hoặc đọc trước đây - một mẫu câu tương ứng với điều bạn muốn thể hiện. Sau đó, nó bắt chước câu nói (Tạo ra một câu giống hệt hoặc tương tự vậy) và bạn nói câu của "chính bạn" ở ngôn ngữ đó. Quá trình này diễn ra trong vô thức: bộ não của bạn đảm đương nó một cách tự động.

Mô hình học ngoại ngữ

Mô hình này thực sự rất đơn giản. Bộ não không thực sự tìm kiếm cả câu mà chỉ tìm kiếm các phần của câu. Nó có thể tự tạo lên những mẫu câu dài và phức tạp từ những phần nhỏ đó. Vậy nên, nó không chỉ "bắt chước" một mẫu câu tại thời điểm đó, ngược lại, nó sử dụng rất nhiều mẫu câu cùng lúc để xây dựng lên các câu mới.

Ví dụ, nó "biết" rằng nó có thể lấy một từ ở một câu nó đã "nghe" và thay thế một từ tương ứng khác. Ví dụ, nếu nó đã từng nghe "Chú mèo ở dưới bàn", nó có thể dễ dàng tạo ra một mẫu câu tương tự như, "Chú chó ở dưới bàn" hoặc "Cuốn sách ở dưới ghế" (Nếu bộ não của chúng ta cũng đã từng nghe và hiểu những danh từ như chó, sách hay ghế) . Nó có thể thay thế nhiều hơn một từ, ví dụ "Chú mèo đang ở dưới cái bàn màu đen". Nếu càng nạp thêm các câu đúng và dễ hiểu, thì nó càng có thể tạo ra nhiều câu và còn có thể bắt chước và tự tạo ra câu của riêng nó.

Mô hình mô tả quá trình một đứa trẻ học và tiếp thu ngôn ngữ mẹ đẻ của chúng. Đứa trẻ nghe từ bố mẹ hay từ những người khác. Bộ não của chúng thu thập các mẫu câu và trở lên tốt hơn trong việc tạo ra các câu của chính chúng. Đến khi 5 tuổi, đứa trẻ có thể nói một cách tương đối trôi chảy.

mô hình đó cũng đúng khi áp dụng vào việc học một ngôn ngữ khác.

Bộ não tạo ra những mẫu câu dựa trên những câu mà nó đã được thấy hoặc nghe (input). Vậy nên, cách mà nó trở lên tốt hơn trong việc này là đắm chìm mình trong thật nhiều "input" - Những câu (được viết hay được nói) đúng và dễ hiểu. Trước khi bạn có thể nói và viết bằng ngôn ngữ khác, nó cần được nạp "đủ" những mẫu câu đúng ở ngôn ngữ đó. Output (Đầu ra, bao gồm speaking và writing) không quá quan trọng..

Input có thể thay đổi khả năng ngoại ngữ của bạn như thế nào?

Nếu bạn đã đọc một vài cuốn sách bằng Tiếng Anh, bạn sẽ thấy Tiếng Anh của mình trở nên tốt hơn. Bạn sẽ sử dụng nhiều từ vựng và ngữ pháp hơn. Bạn sẽ bất ngờ bởi Tiếng Anh xuất hiện trong đầu bạn một cách tự nhiên khi bạn nói hoặc viết. Những thứ như thì quá khứ đơn hay cách dùng từ since sẽ tự nhiên thành một phần trong bạn. Bạn dùng nó tự động, không cần nghĩ trước khi output. Những cấu trúc câu sẽ tự nhiên xuất hiện trong đầu bạn.

Việc sử dụng Tiếng Anh sẽ trở lên dễ dàng hơn, bởi nó sẽ chỉ lặp lại những gì mà nó đã thấy nhiều lần. Bằng việc đọc một cuốn sách bằng Tiếng Anh, bộ não của bạn được tiếp thu hàng ngàn câu Tiếng Anh. Chúng là một phần của bạn. Bạn sẽ không thể nào viết "feeled" nếu bạn đã thấy dạng đúng "felt" của nó 50 lần trong cuốn sách bạn đã đọc? Đơn giản là, bạn chẳng thể nào mắc lỗi đó được nữa

Bạn chắc chắn sẽ thấy được sự cải thiện trong bài kiểm tra Tiếng Anh của mình. Ví dụ, ở câu hỏi trắc nghiệm, bạn sẽ "nhận thấy được" đâu là câu trả lời đúng. Bạn có thể sẽ không hiểu tại sao nó đúng, nhưng bạn biết rằng nó đúng. Bạn sẽ biết bởi bạn đã đọc nó quá nhiều lần.

Nó đúng cho mọi từ và các cấu trúc ngữ pháp. Rồi khi Immerse được đủ nhiều thì bạn sẽ biết rằng “I have seen Paul yesterday” là sai "ngữ pháp" và “I saw Paul yesterday” mới đúng. Câu đầu nghe có vẻ sai. Làm cách nào bạn biết nó sai? Đơn giản thôi, bộ não bạn đã đọc về dạng đúng của nó tới 192 lần, còn câu sai kia thì bạn chưa thấy một lần nào cả

Bạn có biết sự khác nhau giữa một người học và một người bản ngữ không? Người bản ngữ "cảm thấy" cái gì đúng. Họ có thể nói cho bạn biết rằng câu này "nghe" tốt hoặc không tốt (hay thiếu tự nhiên) và họ còn không cần sử dụng đến các cấu trúc ngữ pháp để làm điều đó. Họ có thể làm được như vậy chỉ đơn giản bởi họ đã được nghe và đọc rất nhiều các câu Tiếng Anh trong cuộc sống của họ. Đó là điểm khác biệt duy nhất giữa người học và người bản ngữ - Số lượng input được nạp vào. Bạn cũng có thể sử dụng Tiếng Anh tương đương như người bản ngữ nếu bạn có đủ nhiều "input".

Vậy thì đơn giản là?

Nạp Input nhiều hơn!